Nhờ các bạn văn nghệ Bình Trị Thiên có lòng yêu, cho xe vô tận Đà Nẵng để đón, nên chỉ non hai tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã ra tới Huế. Từ trên đỉnh đèo Hải Vân, ở chỗ giáp ranh hai tỉnh Quảng Đà - Bình Trị Thiên trở đi, mọi ý nghĩa của tôi đều hướng về mặt đất Huế mà tôi chưa từng đến. Trong buổi chiều mùa xuân nắng còn vương trên nhựng triền núi cao mây bay tợ khói và bên dưới là những ghềnh biển trắng xóa sóng trào, tôi nhận ra Huế trướt hết đến với tôi bởi Lăng Cô, một vùng biển lặng im, với một ngư thôn nằm trên doi cát ghếch mũi nhiều con thuyền. Vài làn khói ẩm màu lam lơ lửng bay lân từ những mái tranh mái ngói ló dạng dưới tre xanh. Tôi chợt nghe như có mùi tôm sò nướng tỏa thơm từ mâm nhà nào đó.
Có tiếng trẻ cười nói bi bô với mẹ ở đâu đó, và những mũi thuyền còn ướt nước biển khơi kia dường như đang thở. Lòng tôi đằm thắm yên tĩnh lại trước cảnh sắc giống như tranh thủy mặc nơi thôn xóm địa đầu phía Nam Huế tràn ngập thanh bình, sau khi vừa hồi hộp vượt qua bao ngọn đèo hiểm của Hải Vân. Rồi khi Lăng Cô đã ở lại phía sau, nhìn bóng núi mây mờ mịt sương chiều, tôi bỗng nao lòng chạnh nghĩ tới chiến khu Thừa Thiên mà tôi ánh chừng là ở mạn ấy, nơi bao anh em đồng chí của tôi đã từng sống và chiến đấu trong những tháng năm gian lao cơ cực, có những buổi đói cơm, có những buổi sốt rét run người và có những chiều mưa tầm tã, y như chúng tôi đã trải qua ở những cánh rừng Nam.